Chương 9: Phi Phục
Trong trường hợp Dụng thần không hiện ở trong Quẻ, thì lấy Nhật hoặc Nguyệt làm Dụng thần. Nếu Nhật và Nguyệt không phải là Dụng Thần thì phải chọn hào Phi. Cách chọn hào Phi xem ở phần Quẻ Dịch.
Phục thần hữu dụng có 6 cách:
- Phục thần là Nhật thần hay Nguyệt kiến,
- Phục thần vượng tướng,
- Phục thần được Phi thần sinh
- Phục thần được động hào sinh,
- Phi thần bị Nhật, Nguyệt, động hào xung khắc,
- Phi thần hưu tù, bị Không, Phá, Mộ, Tuyệt.
Khi hữu dụng tức hào Phục xuất lộ dễ đàng, không còn bị hào Phi ngăn cản nữa. Nếu Phục thần không thể xuất hiện thì chẳng dùng được. Phục thần chẳng xuất hiện được xảy ra trong 5 trường hợp sau:
- Phục thần hưu tù, vô khí.
- Phục thần bị Nhật Nguyệt xung khắc.
- Phục thần bị động hào vượng tướng khắc hại.
- Phục thần Mộ, Tuyệt tại Nhật, Nguyệt hoặc Phi thần,
- Phục thần hưu tù gặp Tuần Không, Nguyệt Phá.
Điều quan trọng là muôn sử dụng Phục thần thì cần Phục vượng tướng, mà vượng tướng thì căn cứ vào Nhật Nguyệt vào Nguyên thần. Phục thần tuỳ trường hợp mà sử dụng, thường đóng các vai trò Dụng thần hoặc Nguyên thần hay Kỵ thần.
Vd: Ngày Nhâm Thìn tháng Mão, xem văn thư ngày nào tới, được quẻ Sơn Hoả Bí không có hào động.
Dần | Quan | ||
Tí | Tài | ||
Tuất | Huynh - ỨNG | ||
Hợi | Tài | ||
Phục Ngọ | Sửu | Huynh | |
Mão | Quan - THẾ |
Dụng thần là Phụ không hiện trong quẻ, phải tìm hào Phục là Ngọ hoả làm Dụng thần. Phi thần là Sửu Thổ hưu tù ở tháng Mão, chỉ hiềm Dụng thần Ngọ hoả tuy vượng tại tháng này nhưng lâm Không. Do đó đến ngày Giáp Ngọ xuất Không tất văn thư dến. Sau quả như vậy.
Vd: Ngày Bính Thìn tháng Dậu, xem con bị bệnh được quẻ Địa Phong Thăng
Dậu | Quan | ||
Hợi | Phụ | ||
Tuần Không - Phục Ngọ | Sửu | Tài - THẾ | |
Hợi | Phụ | ||
Sửu | Tài - ỨNG |
Dụng thần là Tử Tôn không xuất hiện trong quẻ, phải tìm hào Phục là Ngọ hoả phục tại hào Sửu. Sửu lâm Không nên Ngọ dễ xuất lộ. Đúng như câu phú trong Hoàng Kim Sách: “Không hạ Phục thần dị vu dẫn bạt” (Phục thần nằm dưới hào Không dễ kéo ra). Đến ngày Ngọ, Dụng Thần vượng nên xuất lộ, con lành bệnh.
- Ngày Bính Thìn tháng Mão xem bệnh cho cha, được quẻ Địa Lôi Phục:
Dậu | Tử | ||
Hợi | Tài | ||
Sửu | Huynh - ỨNG | ||
Thìn | Huynh | ||
Phục Phụ Tị Hỏa | Dần | Quan | |
Tị | Tài - THẾ |
Dụng thần không xuất hiện, phải tìm hào Phục là Tị hoả ở dưới hào Phi là Dần mộc. Theo Dụng thần mà đoán thì Dụng thần là Tị hoả vượng ở tháng Mão, thì phải lành. Nhưng hào Thế ở Kỵ thần Tí thuỷ, mà hào Phụ lại phục dưới hào Quan tất chỉ lành trước mắt, đến khi Kỵ thần vượng sẽ nguy, đúng vào tháng Hợi (Kỵ thần) xung khắc hào Phụ là Tị Hoả.
Tuy nhiên quẻ này nghi ngờ không dám quyết đoán, vì thế khiến người con thứ bói, được quẻ Tiệm biến Tốn
Mão | Quan - ỨNG | ||
Tị | Phụ | ||
Mùi | Tài | ||
Thân | Tử - THẾ | ||
x | Ngọ | Phụ (hóa Hợi) | |
Thìn | Huynh |
Quẻ này Dụng thần Phụ Mẫu là Ngọ hoả vượng ở tháng Mão, nhưng hoá hồi đầu khắc, trước mắt không đáng ngại, nhưng đến tháng Hợi tất nguy. Hào Thế trì Tử Tôn là Thân kim bị Ngọ hoả động vượng khắc nên Dụng thần dù vượng kết quả cũng chẳng tốt.
Kết quả về sau người cha chết vào mùa đông.
- Ngày Bính Tí,tháng Bính Thân năm Tân Mão, xem con còn sống hay chết được quẻ Quán biến Bỉ
Mão | Tài | ||
Tị | Quan | ||
x | Mùi | Phụ (hóa Hợi) - THẾ | |
Tị | Quan | ||
Mão | Tài | ||
Phục Tử Tí Thủy | Mùi | Phụ - ỨNG |
Dụng thần là Tử Tôn không hiện trong quẻ, đúng ra phải tìm hào Phục, nhưng Nhật thần là Tí thuỷ nên Tử Tôn tại Nhật, lại thêm hào Phụ Mùi thổ biến Hợi là Tử Tôn. Tử Tôn vượng vì lâm Nhật mà được Nguyệt kiến (Thân) sinh, mà lại tam hợp với hào Thế nên con yên ổn và sẽ về. Xem lúc nào về thì phải xét động hào, động biến Hợi thuỷ Tử Tôn nên tháng Hợi tất về.
- Lý Ngã Bình nói: Cổ pháp dùng Phục thần tuy ứng nghiệm, nhưng sự suy vượng, hưu tù, hình xung, khắc hại, Nguyệt phá, Tuần không của Dụng thần cũng khó đoán, vì thế phải xem nhiều quẻ. Trong sách Dịch Mạo có để lại quẻ để chiêm nghiệm:
- Ngày Mậu Dần tháng Tí, xem quan chức được quẻ Khôn biến Đoài:
Mùi | Phụ | ||
Dậu | Huynh | ||
Hợi | Tử - ỨNG | ||
Ngọ | Quan | ||
Thìn | Phụ | ||
x | Dần | Tài (hóa Tị) - THẾ |
Sách đoán: Phi hào Ngọ là Quan tinh lâm Nguyệt Phá. Tị Quan phục tại Dần được Trường Sinh thì Mạnh Xuân sẽ được lên chức.
Hoàng Kim Sách bảo: Phi hào và Biến hào đều không có Dụng thần thì đi tìm hào Phục. Quẻ này sơ hào là Dần mộc biến thành Tị hoả là Quan tinh. Mạnh Xuân thì Quan tinh gặp Trường Sinh. Tài hào độc phát sinh ra Quan, vì sao không bảo biến thành Quan mà lại nói là Phục thần. May quẻ này Phục và Biến đều là Tị hoả. Nếu người sau gặp quẻ khác mà cũng dùng Biến hào làm thành Phục thì đáng lầm lẫn. Quẻ này để lại trong sách cho đời sau chiêm nghiệm thì thật đáng cười.