“Phận gái mười hai bến nước”: mười hai bến là những bến nào?
ĐỘC GIẢ: Mười hai bến nước trong “phận gái 12 bến nước” là gì? Có phải chăng là 12 cương vị trong xã hội xưa của ta và Trung Quốc như: Cao là công, hầu, khanh, tướng; trung là sĩ, nông, công, thương; và thấp là ngư, tiều, canh, mục? Còn trong và đục có phải là thanh khiết, trong sạch và nhơ bấn, tham ô hay không?
AN CHI: Nhiều người vẫn quan niệm mười hai bến nước đúng như ông đã nêu. Chúng tôi không tin ở cách giải thích trên mà cho rằng Huình-Tịnh Paulus Của giảng có lý hơn:
“Con gái mười hai bến nước: Thân con gái như chiếc đò, hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục, hoặc đưa người tốt, hoặc đưa người xấu, may thì nhờ, rủi thì chịu. Tiếng nói mười hai bến nước là nói cho vần”.
(Đại Nam quấc âm tự vị, tập I, Sài Gòn, 1895. X. ở chữ bến, tr.46-7).
Điều mà tác giả giảng rằng “Tiếng nói mười hai bến nước là nói cho vần” thì chúng tôi lại quan niệm là do từ nguyên dân gian mà ra. Đối với thành ngữ đang xét, rõ ràng là hai tiếng trong, đục phải được hiểu rộng hơn cách hiểu mà ông đã nêu.
(KTNN 95, ngày 01-11-1992)
ĐỘC GIẢ: Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay số 95 đã không giải đáp dứt khoát thành ngữ mười hai bến nước” mà chỉ mứi xác định cách giảng của Huình-Tịnh Paulus Của “hợp lý hơn” cách hiểu do ông Triệu Văn Cẩn nêu lên. Ngoài cách hiểu mà ông Triệu Văn Cẩn đã nêu, còn có thể hiểu “mười hai bến nước” là 12 nghề nghiệp trong xã hội ta ngày xưa: sĩ, nông công, thương, nho, y, lý, bốc, ngư, tiều, canh, mục hoặc là 12 tuổi tính theo thập nhị chi: Tý, Sửu, Daanf, Mẹo, v.v..
AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay số 95, chúng tôi có nói rằng đây là chuyện do từ nguyên dân gian gây ra nhưng vì vấn đề hơi phức tạp nên chúng tôi có hẹn đến một dịp khác sẽ trình bày rõ. Nay xin nói vắn tắt như sau. Hai danh từ bến và thuyền vẫn được dùng theo ẩn dụ để chỉ người con gái và người con trai trong quan hệ đính ước, hẹn hò. Từ cachs dùng này, đi xa thêm một bước, bến lại được dùng để chỉ số phận của cá nhân, thường là phụ nữ, trong quan hệ nhân duyên. Chữ nhân ở đây viết là 姻 và nhân duyên được Mathews’ Chinese-English Dictionary giảng là “the fate or influence which brings lovers together” nghĩa là “số phận hoặc ảnh hưởng gắn bó (hai) người yêu với nhau”. Bến nước trong thành ngữ mười hai bến nước chính là thứ nhân duyên này. Nhưng trong tiếng Hán lại còn có một thứ nhân duyên khác, với chữ nhân viết là 因. Đây là nhân duyên của nhà Phật mà cũng quyển từ điển trên đã giảng như sau: “the cause which produces effects in a future life” nghĩa là “cái nhân tạo ra những cái quả trong kiếp sau”. Theo điển lý nhà Phật thì có tất cả mười hai nhân duyên, tiếng Hán gọi là thập nhị nhân duyên. Do cách hiểu theo từ nguyên dân gian - mà vì khuôn khổ có hạn, chúng tôi cũng không thể nói kỹ tại đây - nên người ta đánh tráo thứ nhân duyên của thần Ái tình vào chỗ thứ nhân duyên của Phật mà diễn nôm thập nhị nhân duyên thành mười hai bến nước. Hóa cho nên chỉ cso hai bến như Huình-Tịnh Paulus Của đã nói “hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến dducj (…) may thì nhờ, rủi thì chịu” đó mà thôi. Từ điển gia của chúng ta đã không thấy được hiện tượng từ nguyên dẫn gian nên mới viết rằng “tiếng nói mười hai bến nước là nói cho vần”. Nhưng ông vẫn rất đúng ở chỗ ông không thừa nhận rằng ở đây hai tiếng mười hai có ý nghĩa xác thực như khi chúng được phân bố cho những ngôn cảnh bình thường khacs.
Để cho rõ hơn, chúng tôi xin được nhắc đến lý thuyết hữu quan của nhà từ nguyên học tiên phong hiện đại người Pháp là Pierre Guiraud trong cuốn Les locutions francaises (Paris, 1973). Đó là chương V mang tiêu đề “Accidents linguistiques” (Các sự cố ngôn ngữ tỏng đó tác giả đã bàn đến những sự đan chéo hình thức) (croisements de formes) và những sự lan truyền ý nghĩa (contaiminations de sens) giữa các thành ngữ và từ ngữ với nhau. Phàm đối với các thành ngữ hóc búa kiểu mười hai bến nước mà khi nghiên cứu lại không xét đến các hiện tượng trên đây thì khó lòng tìm ra sự thật. Ở đây, nhân duyên của thần Ái tình đã lây nghĩa cho nhân duyên của nhà Phật nên mới tạo ra lối nói oái ăm đó.
Mười hai thành phần đã kể ra chỉ là kết quả của một sự liệt kê trùng lặp cốt tìm cho đủ con số vì nho cũng là sĩ mà canh cũng là nông. Hiếu theo nghĩa rộng, nho, y, lý, bốc cũng lại là sĩ cả. Mười hai địa chi cũng không liên quan gì đến thành ngữ đang xét.